Phương pháp Tư duy khoa học
Trích bài chia sẻ của TS. Chu Hảo – Viện trưởng Viện Phan Châu Trinh tại Trường hè Tư duy 2023.
Tư duy khoa học là suy nghĩ một cách có mục đích và có phương pháp. Tư duy được chia làm hai loại: tư duy như công cụ nghiên cứu và tư duy nhằm mục tiêu.
Tư duy như công cụ nghiên cứu
Tư duy như công cụ nghiên cứu bao gồm tư duy logic, tư duy biện chứng và tư duy hệ thống (phức hợp).
Tư duy logic
Tư duy logic là một công cụ tư duy có từ thời khoa học cổ điển, tức là từ thế kỷ 17 đến 19, bắt đầu từ học thuyết của Newton. Có tư duy logic thì mới có thể lập nên một mô hình để nghiên cứu, sau đó dùng mô hình nghiên cứu đó để tìm hiểu sự vận hành và tác động của sự việc đó.
Thứ hai là sử dụng logic học hình thức để tư duy. Tư duy logic này khác với logic hình học. Logic hình học có một số đặc điểm. Và từ logic hình học có thể phát triển thành tư duy logic.
Quy luật cơ bản của logic học hình thức
- Đồng nhất, A là A, chứ A không thể là cái khác.
- Mâu thuẫn, A không thể vừa là A vừa không là A. A là A, A chỉ là A chứ không thể là cái khác.
- Triệt tam, A hoặc có hoặc không, không thể vừa có vừa không.
- Tam đoạn luận, ví dụ mọi động vật đều sẽ chết. A là động vật, vậy thì A cũng sẽ chết.
Sản phẩm của tư duy logic
Tư duy logic áp dụng 4 quy luật trên để phán đoán, suy diễn, nhằm lập luận chặt chẽ và hợp lý (logic).
Tư duy biện chứng
Tư duy biện chứng là công cụ tư duy của thời đại khoa học cổ điển, thế kỷ 17 đến thế kỷ 19. Sử dụng các quy luật của phép biện chứng, duy vật biện chứng để tư duy.
Các quy luật cơ bản của phép biện chứng
- Chuyển hóa lượng thành chất. Tức là một số lượng đủ lớn có thể biến đổi đặc tính chung của nó.
- Phủ định của phủ định (trở lại cái cũ ở mức độ cao hơn)
- Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Các mặt đối lập vừa mâu thuẫn lại vừa kết hợp với nhau.
Ví dụ, không có trắng thì không có đen, không có tốt thì không có xấu, mà không có ác thì cũng không có thiện. Đây là những mặt mâu thuẫn nhưng bổ sung và làm rõ nghĩa cho nhau.
Sản phẩm của tư duy biện chứng
Sản phẩm của tư duy biện chứng là nhìn thấu các quá trình phát triển của sự vật, đặt sự vật đúng vào bối cảnh nhằm ra quyết định phù hợp.
Tư duy hệ thống (phức hợp)
Tư duy hệ thống là tư duy toàn cục, tư duy mạng lưới, tư duy theo tiến trình và tư duy hồi quy.
- Tư duy toàn cục
- Tư duy mạng lưới, giống như mạng nhện, đụng vào một mắt xích hay một mối nối là có thể biến đổi cả mạng lưới đó.
- Tư duy theo tiến trình, không thể nhảy cóc mà phải lần lượt.
- Tư duy hồi quy cũng giống như feedback của các hệ thống tự động.
Thành phần
Thành phần của tư duy hệ thống bao gồm mô hình, tương quan giữa các thành phần, là một hệ thống động, chỉ đạo thực hành và kiểm soát.
Đặc điểm
Đặc điểm của tư duy hệ thống là một hệ thống, đa chiều và có một mục tiêu rõ ràng.
Vai trò
Vai trò của tư duy hệ thống là nhìn rộng, bao quát, xác định nhanh khâu đột phá và xác định nhanh phương thức tác động.
Tư duy nhằm mục tiêu
Có hai loại tư duy nhằm mục tiêu là tư duy phản biện và tư duy sáng tạo.
Tư duy phản biện
“Tư duy phản biện là sự suy nghĩ sâu sắc, nhạy cảm, thực tế và hữu ích để quyết định niềm tin hay hành động”. Đây là định nghĩa của Robert Ennis từ năm 1995 và được nhiều người thừa nhận. Hay “Tư duy phản biện là loại tư duy bảo vệ ta không bị ai lừa phỉnh và không lừa phỉnh chính mình”. (Matthew Lipman, 2003).
Các nguyên tắc của tư duy phản biện
Các nguyên tắc của tư duy phản biện là không định kiến, có tiêu chuẩn rõ ràng và sử dụng thành thục tư duy logic và tư duy biện chứng, tức là phải sử dụng hai loại tư duy trên thì mới có được tư duy phản biện.
Sản phẩm của tư duy phản biện
Sản phẩm của tư duy phản biện là các phán đoán. Mà phán đoán là hy vọng đúng thì mới phán đoán, chứ nếu chưa thấy đúng thì đừng phát biểu thành mệnh đề vội. Khi phát biểu thành mệnh đề thì phải có một niềm tin hy vọng rằng nó sẽ đúng.
Thứ hai là đã có năng lực phản biện, tức là tự soi xét lại mình, có thể là phản tư, thì năng lực tư duy tự động được nâng cao.
Tư duy sáng tạo
Tư duy sáng tạo là gì?
Tư duy sáng tạo là tư duy nhằm tạo ra các giá trị mới của văn hóa nghệ thuật hoặc khoa học kỹ thuật. Tư duy sáng tạo là hoạt động tinh thần khai phóng, tuyệt đối cần một môi trường tự do tư tưởng và dân chủ thảo luận.
Những phẩm chất đặc biệt của tư duy sáng tạo
Thứ nhất là độc lập tư duy, dám độc lập tư duy. Thứ hai là dám hoài nghi, hoài nghi không có vùng cấm. Và cuối cùng là tự tin vào năng lực sáng tạo. Năng lực sáng tạo của một con người có thể xuất phát từ 7 loại trí khôn có trong trẻ con. Trong đấy có trí khôn cơ bắp là nhiều người ngạc nhiên nhất, nhưng thực sự là có. Nếu các bạn theo dõi các cầu thủ bóng rổ chuyên nghiệp của Mỹ thì mới thấy là họ được đào tạo từ lúc 2,3 tuổi. Để có được trí thông minh cơ bắp, có được những vận động tinh tế về sau, như đứng từ khoảng cách 20, 30m ném một phát trúng rổ, không phải là dễ. Thứ nhất là phải có năng lực bẩm sinh từ bé. Thứ hai là phải có quá trình rèn luyện. Thứ ba là phải sống hết mình vì nghề nghiệp. Tôi nói về những phẩm chất đặc biệt này với hy vọng rằng đất nước chúng ta sẽ có rất nhiều người tài giỏi.
Một trong những phẩm chất đặc biệt khác của những người có tư duy sáng tạo là giàu trí tưởng tượng. Einstein từng nói “Trí tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức”. Bên cạnh đó, phải có trực giác tốt. Trực giác cũng là một hiện tượng tâm linh, theo cách hiểu của tôi. Poincare cũng từng có một câu nói rất hay, “Logic giúp ta chứng minh, trực giác giúp ta khám phá”. Mà trực giác cũng liên quan đến một thứ quan trọng là trí tưởng tượng. Phải giàu trí tưởng tượng thì mới có trực giác, và ngược lại, phải có trực giác thì mới có trí tưởng tượng.
Một phẩm chất đặc biệt nữa của những người tài là kiên nhẫn. Như Edison đã nói: “Thiên tài là 1% của trí não và 90% của mồ hôi và nước mắt”. Ông ấy đã từng làm đến hàng nghìn thí nghiệm cho một việc gì đó, ví dụ như sợi tóc trong bóng đèn điện. Sợi tóc đầu tiên của Edison không phải là kim loại, mà là một loại sợi tre, cho chất dẫn điện vào để làm thành dây tóc. Sau này mới trở thành bóng đèn điện dùng dây đồng.
Nung nấu tâm trí lâu dài để có lúc lóe sáng, thăng hoa, xuất thần hay đốn ngộ.
Bản thân những người viết nhiều cũng có những phút thăng hoa như vậy. Khi đang viết một đoạn văn nào đó, thì tự nhiên mọi thứ dồn về trong óc, để mình lựa chọn một từ hay một hình ảnh nào đó. Nhiều khi chỉ là một ý nghĩ, một trực giác thoáng qua mà không kịp ghi lại thì không thể nhắc lại được nữa. Và nhiều khi nó lại đến từ vô thức, ở đây tôi muốn nói đến những hiện tượng về khuyết tật não, những người có khả năng đặc biệt. Stephen Hawking là một ví dụ. Ông ấy bị bệnh tàn tật ở chân tay, thật ra là có vấn đề trong hệ thần kinh. Nhưng chính vấn đề này đã giúp ông ấy trở thành nhà vật lý có lẽ là lớn nhất của thế kỷ.
Những nguyên tắc của tư duy sáng tạo
Những người có tư duy sáng tạo là những người muốn thay đổi, không thích lối mòn và phải có được tinh thần vô ý, vô cố, vô tất, vô ngã (Khổng Tử).
Vô ý ở đây không phải là không để ý đến điều gì mà có nghĩa là không chấp, không bị thành kiến.
Ví dụ trong bài thơ “Cư trần lạc đạo phú” của Trần Nhân Tông, có câu “Cư trần lạc đạo thả tùy duyên”, tức là Sống ở trên đời thì theo cái duyên, có duyên phận của mình. Đói thì ăn, khát thì uống. Đấy là thứ quý nhất ở trên đời.
Hay “Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch/Đối cảnh vô tâm, mạc vấn thiền”. “Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch” tức là trong nhà đã có kho báu đó rồi. “Đối cảnh vô tâm, mạc vấn thiền” tức là trước tất cả mọi sự đời mà anh không thèm để ý đến nó, quyết buông bỏ, thì cần gì phải thiền nữa. Đấy là đỉnh cao của thiền rồi. Trước tất cả mọi sự đời phải biết buông bỏ thì ta mới có được tâm hồn yên tĩnh và không phải dùng đến thiền để tĩnh tâm nữa.
Điều quan trọng nhất trong cuộc đời trước hết là phải giữ cho tâm mình yên lặng, gọi là tĩnh tâm. Thứ hai là yêu thương, thứ ba là buông bỏ. Có được ba thứ đó và tâm niệm chúng hằng ngày, tĩnh tâm, đừng để cho lòng mình bị xáo trộn bởi lòng ghen ghét, tham sân si, để cho lòng mình bình yên; biết yêu thương và biết buông bỏ, thì cuộc đời sẽ thật hạnh phúc.
Bài viết liên quan: